Nhiễm trùng hậu sản là gì? Các công bố khoa học về Nhiễm trùng hậu sản

Nhiễm trùng hậu sản là tình trạng nhiễm trùng xảy ra sau khi phụ nữ sinh em bé. Thường xảy ra trong vùng kín và có thể gây ra các triệu chứng như sốt, đau và sư...

Nhiễm trùng hậu sản là tình trạng nhiễm trùng xảy ra sau khi phụ nữ sinh em bé. Thường xảy ra trong vùng kín và có thể gây ra các triệu chứng như sốt, đau và sưng. Việc chăm sóc vùng kín sau sinh và sử dụng kháng sinh khi cần thiết có thể giúp ngăn chặn và điều trị nhiễm trùng hậu sản.
Nhiễm trùng hậu sản có thể xảy ra do vi khuẩn, virus hoặc nấm, thường gây ra bởi việc làm tổn thương hoặc nhiễm trùng của vùng kín trong quá trình sinh em bé. Các yếu tố tăng cường nguy cơ nhiễm trùng hậu sản bao gồm quá trình sinh mổ, nhiễm trùng trong quá trình mang thai hoặc dị dạng trong cấu trúc của cơ quan sinh dục của phụ nữ.

Các triệu chứng của nhiễm trùng hậu sản có thể bao gồm sốt cao, đau rát hoặc đau trong vùng kín, đỏ, sưng và mủ tiết ra từ vùng kín, cảm giác mệt mỏi và dỗi hay cáu kỉnh. Nếu phát hiện có các triệu chứng này, người phụ nữ cần đi khám bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị kịp thời nhằm tránh các biến chứng nghiêm trọng.
Ngoài việc chăm sóc vùng kín sau sinh và sử dụng kháng sinh khi cần thiết, việc duy trì vệ sinh cá nhân, thay tã cho em bé thường xuyên, và thức hiện quy trình vệ sinh khi đến với phụ nữ sau sinh cũng là những biện pháp phòng tránh quan trọng để ngăn chặn nhiễm trùng hậu sản.

Nếu nghi ngờ có triệu chứng nhiễm trùng hậu sản, bạn nên đến bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị chính xác. Việc chậm trễ trong việc chẩn đoán và điều trị nhiễm trùng hậu sản có thể gây ra những biến chứng nghiêm trọng như viêm nhiễm toàn thân (sepsis) hoặc viêm màng não. Do đó, việc chăm sóc sức khỏe sau sinh là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe cho cả mẹ và bé.
Ngoài những biện pháp phòng tránh và chăm sóc sau sinh, có một số cách để giảm nguy cơ nhiễm trùng hậu sản bao gồm:

1. Sử dụng kháng sinh một cách cẩn thận: Đôi khi, việc sử dụng kháng sinh trước hoặc sau sinh có thể giúp ngăn chặn nhiễm trùng hậu sản. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh không cẩn thận có thể gây ra tác dụng phụ và làm tăng khả năng kháng thuốc của vi khuẩn. Do đó, chỉ sử dụng kháng sinh trong trường hợp cần thiết và theo chỉ định của bác sĩ.

2. Chăm sóc vết mổ: Nếu phụ nữ phải đến cấp cứu sinh mổ, việc chăm sóc vết mổ một cách cẩn thận và sạch sẽ là rất quan trọng để tránh nhiễm trùng hậu sản.

3. Kiểm tra sức khỏe định kỳ: Việc thăm khám sức khỏe định kỳ sau sinh cũng giúp phát hiện và điều trị các vấn đề sức khỏe một cách kịp thời, giúp ngăn chặn nhiễm trùng hậu sản.

Những biện pháp này cùng việc chăm sóc sức khỏe tổng thể sau sinh sẽ giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng hậu sản và bảo vệ sức khỏe của mẹ và em bé trong giai đoạn quan trọng này.
Ngoài ra, việc ăn uống lành mạnh và hợp lý, bao gồm việc bổ sung đầy đủ dinh dưỡng sau khi sinh cũng rất quan trọng để tăng cường hệ thống miễn dịch và phục hồi sức khỏe sau sinh. Phụ nữ sau khi sinh cần duy trì một chế độ ăn uống đa dạng, bao gồm rau, củ, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, các nguồn protein như thịt, cá, sữa và đậu nành, và cần bổ sung đủ lượng nước cần thiết hàng ngày.

Ngoài ra, việc kiểm tra sức khỏe của bản thân sau khi sinh để đảm bảo không có bất kỳ dấu hiệu nào của nhiễm trùng hậu sản cũng rất quan trọng. Nếu phát hiện bất kỳ triệu chứng nào như sốt, đau rát, hoặc sưng tại vùng kín, phụ nữ cần thăm khám bác sĩ ngay lập tức để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiễm trùng hậu sản":

Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 3 - Trang 19-26 - 2020
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở 35 – 37 tuần và đánh giá hiệu quả dự phòng lây nhiễm trước sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 1/1/2019 đến 1/1/2020. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 - 37 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC, kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS từ 35 - 37 tuần là 17,5% (95%CI: 15,5 - 19,7). 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm β-Lactam và Vancomycin, chỉ có 18,6% nhạy cảm với Clindamycin. Tất cả các thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh theo khuyến cáo CDC. Thai kỳ mang GBS có liên quan đến nguy cơ vỡ ối, rỉ ối ≤ 37 tuần (OR 2,7; 95%CI: 1,3 - 5,6; p = 0,010) và sinh non (OR 2,9; 95%CI: 1,8 - 4,7; p < 0,0001), tuy nhiên, không tăng nguy cơ mổ lấy thai, nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng hậu sản. So với nhóm không mang GBS, thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh không tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR 1,3; 95%CI: 0,7 - 2,3; p = 0,431), kể cả ở nhóm theo dõi chuyển dạ (OR 1,6; 95%CI: 0,7 - 3,4; p = 0,239).  Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ tương đối cao. Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
#Liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh #nhiễm trùng hậu sản
Khảo sát tỷ lệ đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn gây nhiễm trùng hậu sản tại Bệnh viện Từ Dũ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2B - Trang 27 - 30 - 2015
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ cấy sản dịch dương tính, các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn hậu sản và tỷ lệ đề kháng kháng sinh của từng chủng vi khuẩn phân lập được. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 250 sản phụ sau sinh được chẩn đoán nhiễm trùng hậu sản đang nằm điều trị tại các khoa lâm sàng của bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ tháng 8/2013 đến tháng 6/2014. Các mẫu bệnh phẩm sản dịch được thu thập để định danh vi khuẩn và làm kháng sinh đồ bằng kỹ thuật khuếch tán kháng sinh trong thạch từ đĩa giấy Kirby-Bauer. Kết quả: Có 233 chủng vi khuẩn được phân lập, trong đó E. coli là tác nhân gây bệnh hàng đầu, chiếm tỷ lệ 43,3%, tiếp theo là Streptococcus spp. và S. epidermidis. Các vi khuẩn này đề kháng cao với các kháng sinh thường sử dụng tại bệnh viện, ngoại trừ amoxicillin-acid clavulanic, ticarcillin-acid clavulanic, piperacillin-tazobactam, amikacin, meropenem, imipenem. Kết luận: Các chủng vi khuẩn gây bệnh thường gặp là E. coli, Streptococcus spp., S. epidermidis. Các vi khuẩn này có tỷ lệ đề kháng thấp dưới 20% với các kháng sinh penicillin và chất ức chế beta-lactamase, nhóm kháng sinh carbapenem, amikacin.
#vi khuẩn gây nhiễm khuẩn hậu sản
Phẫu thuật bảo tồn vật liệu độn mông sau nhiễm trùng khoang đặt túi: báo cáo 1 ca lâm sàng
 Nâng mông là phẫu thuật thẩm mỹ ngày càng phổ biến. Nhiễm trùng chiếm 1,9 đến 5% biến chứng. Phươngpháp điều trị thường là phối hợp liệu pháp kháng sinh và tháo vật liệu; tuy đảm bảo hiệu quả điều trị nhiễmtrùng nhưng để lại tác động tâm lý đáng kể. Chúng tôi báo cáo một trường hợp điều trị thành công bằngliệu pháp kháng sinh phối hợp phẫu thuật bảo tồn túi độn mông. Bệnh nhân nữ 29 tuổi, được chẩn đoánnhiễm trùng khoang đặt túi sau phẫu thuật độn mông 10 ngày. Bệnh nhân được điều trị kháng sinh theokháng sinh đồ; phẫu thuật lấy túi, rửa khoang, rửa và đặt lại túi cùng thì. Sau mổ bệnh nhân hết sốt, vếtmổ liền tốt. Sau 8 tháng, hai mông hoàn toàn ổn định, không có biểu hiện nhiễm trùng tái phát, siêu âmkhông thấy tụ dịch. Phối hợp liệu pháp kháng sinh và phẫu thuật bảo tồn túi độn là khả thi và có cơ sở khoahọc. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác cần thời gian theo dõi dài hơn và trên số lượng lớn ca lâm sàng.
#nâng mông #phẫu thuật bảo tồn vật liệu độn #nhiễm trùng
Nghiên cứu hiệu quả sử dụng kháng sinh dự phòng trong mổ lấy thai tại Bệnh viện Bình An, Quảng Nam
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 3 - Trang 9-14 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng kháng sinh dự phòng tại Bệnh viện Bình An, Quảng Nam và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có so sánh nhóm chứng. Đối tượng nghiên cứu bao gồm các sản phụ có chỉ định mổ lấy thai tại Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Bình An, Quảng Nam từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2023. Nhóm bệnh (nhóm I) bao gồm 119 bệnh nhân được chỉ định sử dụng kháng sinh dự phòng trước mổ lấy thai liều duy nhất Cefazoline 2 g, tiêm tĩnh mạch. Nhóm chứng (nhóm II) bao gồm 142 bệnh nhân sử dụng kháng sinh thường quy sau mổ lấy thai với Ceftriaxone 1 g x 02 lần/ngày, tiêm tĩnh mạch trong 05 ngày. Qua khám lâm sàng, quá trình mổ lấy thai, theo dõi hậu phẫu tại bệnh viện để đánh giá và so sánh các biểu hiện nhiễm trùng hậu sản và các yếu tố liên quan giữa 2 nhóm. Kết quả: Không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về các yếu tố như: nhóm tuổi mẹ, nghề nghiệp, chiều cao, cân nặng, BMI, tiền sử mổ lấy thai, tuổi thai, các dấu hiệu chuyển dạ, thời gian chờ mổ, cân nặng trẻ sơ sinh và các biểu hiện nhiễm trùng hậu phẫu. Nghiên cứu ghi nhận có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm về độ tuổi trung bình (nhóm I và II, lần lượt là 29,5 ± 4,6 và 27,1 ± 4,5 với p < 0,001); thời gian nằm viện (nhóm I và II, lần lượt là 5,36 ± 0,71 ngày và 6,09 ± 1,13 ngày, p < 0,05); địa dư và tình trạng vỡ ối trước mổ. Kết luận: Khi so sánh kháng sinh dự phòng với nhóm kháng sinh thường quy sau mổ lấy thai tại Bệnh viện Bình An Quảng Nam, kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm khuẩn hậu sản trong thời gian nằm viện khác nhau không có có ý nghĩa. Nhưng nhóm dùng kháng sinh dự phòng cho kết quả tốt hơn trong việc giảm được chi phí điều trị, giảm số ngày nằm viện có ý nghĩa, giảm được số lần tiêm thuốc và giảm được nhân công điều dưỡng.
#kháng sinh dự phòng #mổ lấy thai #nhiễm trùng hậu sản
So sánh hiệu quả lâm sàng và độ an toàn của phẫu thuật cắt đá niệu quản qua nội soi retroperitoneal và điều trị tán sỏi niệu quản bằng laser holmium trong việc điều trị sỏi niệu quản trên có tắc nghẽn kèm theo nhiễm trùng đường tiểu Dịch bởi AI
Lasers in Medical Science - Tập 31 - Trang 915-920 - 2016
Mục tiêu của nghiên cứu này là so sánh hiệu quả lâm sàng và độ an toàn của phẫu thuật cắt đá niệu quản qua nội soi retroperitoneal (RPLU) và tán sỏi niệu quản bằng laser holmium (UHLL) dưới dạng hai thủ thuật xâm lấn tối thiểu trong quản lý sỏi niệu quản trên có tắc nghẽn kèm theo nhiễm trùng đường tiểu (UTI). Nghiên cứu hồi cứu bao gồm 189 bệnh nhân đã trải qua sỏi niệu quản trên một bên có tắc nghẽn kèm theo UTI từ tháng 1 năm 2007 đến tháng 11 năm 2014 tại cơ sở của chúng tôi. Bệnh nhân được điều trị bằng RPLU (81 trường hợp) hoặc UHLL (108 trường hợp). Tất cả bệnh nhân đều được điều trị kháng nhiễm khuẩn trước phẫu thuật (đặt stent niệu quản và/hoặc kháng sinh trước phẫu thuật). Dữ liệu thu thập, bao gồm giới tính, độ tuổi, kích thước sỏi, tỷ lệ thành công, thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện sau phẫu thuật, và các biến chứng sau phẫu thuật, đã được so sánh. Tất cả bệnh nhân được theo dõi trong hơn 6 tháng sau phẫu thuật và không có trường hợp hẹp niệu quản nào xảy ra. Trong nghiên cứu này có 189 bệnh nhân, trong đó có 41 (21.7%) nữ và 148 (78.3%) nam với độ tuổi trung bình là 52 tuổi (biên độ 22–81 tuổi). Tất cả các cuộc phẫu thuật đều thành công mà không cần chuyển sang phẫu thuật mở. Kích thước sỏi trong nhóm RPLU lớn hơn nhóm UHLL (16.1 ± 1.4 so với 10.4 ± 1.6 mm, P = 0.012). Thời gian phẫu thuật (P = 0.009) và thời gian nằm viện (P < 0.001) của nhóm UHLL ngắn hơn đáng kể so với nhóm RPLU, trong khi tỷ lệ làm sạch sỏi cao hơn đáng kể ở nhóm RPLU (100 so với 88.9%, P = 0.002). Đặc biệt, số lượng bệnh nhân sốt sau phẫu thuật nhiều hơn ở nhóm điều trị bằng UHLL (15 trường hợp) so với nhóm RPLU (4 trường hợp) (13.9 so với 4.9%, P = 0.043). Hơn nữa, trong nhóm UHLL, ba bệnh nhân không có stent niệu quản trước phẫu thuật đã bị biến chứng nhiễm trùng huyết, điều này không thấy ở nhóm RPLU. Trong nghiên cứu của chúng tôi, độ an toàn và tỷ lệ làm sạch sỏi của RPLU cao hơn so với UHLL trong điều trị sỏi niệu quản trên một bên kèm theo UTI. Kháng sinh trước phẫu thuật và đặt stent niệu quản có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng sau phẫu thuật.
#RPLU #UHLL #sỏi niệu quản #nhiễm trùng đường tiểu #phẫu thuật nội soi.
Đặc điểm lâm sàng và kết quả của bệnh nhân viêm khớp nhiễm trùng được điều trị không phẫu thuật Dịch bởi AI
European Journal of Clinical Microbiology and Infectious Diseases - Tập 39 - Trang 897-901 - 2020
Viêm khớp nhiễm trùng (VKNT) thường được điều trị bằng liệu pháp kháng sinh có hoặc không có phẫu thuật. Ít thông tin được biết về sự khác biệt giữa những bệnh nhân không phẫu thuật và những người được điều trị bằng phẫu thuật. Chúng tôi đã so sánh các bệnh nhân VKNT được điều trị bằng kháng sinh với và không có phẫu thuật. Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu hồi cứu về các bệnh nhân viêm khớp nhiễm trùng đơn khớp nhập viện tại một trung tâm chăm sóc thứ cấp duy nhất từ năm 1998 đến 2015. Tất cả 441 bệnh nhân viêm khớp nhiễm trùng đơn khớp đều nhận được kháng sinh; 382 người được quản lý bằng phẫu thuật và 59 người không phẫu thuật. Các bệnh nhân không phẫu thuật có độ tuổi cao hơn (64,4 so với 58,3 tuổi; p = 0,02) và ít có khả năng có bệnh lý khớp trước đó (44,1% so với 67,5%; p < 0,001). Bệnh nhân không phẫu thuật thường xuyên có biểu hiện nhiễm trùng (37,3% so với 31,9%; p = 0,02) và thường xuyên được nhập vào đơn vị chăm sóc đặc biệt (23,7% so với 16,5%; p = 0,04). Bệnh nhân không phẫu thuật ít khi được xuất viện đến cơ sở phục hồi chức năng (37,9% so với 55,8%; p = 0,002) và ít khi được nhập viện lại trong vòng 60 ngày sau khi xuất viện lần đầu (15,3% so với 18,6%; p = 0,05). Tuy nhiên, bệnh nhân không phẫu thuật có khả năng tử vong cao hơn trong vòng 30 ngày sau khi xuất viện (11,9% so với 3,9%; p = 0,009). Bệnh nhân không phẫu thuật có tình trạng sức khỏe nghiêm trọng hơn khi nhập viện; mặc dù đã trì hoãn phẫu thuật, họ vẫn có tỷ lệ sống sót tương đối cao (88%). Trong số những bệnh nhân sống sót có dữ liệu có sẵn, không có di chứng đáng kể trong hình ảnh sau khi xuất viện. Những phát hiện này hỗ trợ phương pháp không phẫu thuật được coi là hiệu quả cho những bệnh nhân viêm khớp nhiễm trùng không có tình trạng nguy kịch lúc trình diện.
#Viêm khớp nhiễm trùng #điều trị #phẫu thuật #kháng sinh #chăm sóc đặc biệt
Nghiên cứu tình hình nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở phụ nữ có thai từ 36 tuần
Tạp chí Phụ Sản - Tập 21 Số 2 - Trang 34-40 - 2023
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và đánh giá kết quả kết thúc thai kỳ các thai phụ nhiễm liên cầu nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 302 thai phụ quản lý thai kỳ tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Nha Trang từ 02/2020 đến 02/2021. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm trên 36 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC. Kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tuổi thai trung bình ở nhóm thai phụ nhiễm GBS là 39,2 ± 0,8 tuần. Thời gian chuyển dạ < 12 giờ ở nhóm thai phụ nhiễm GBS chiếm phần lớn với 87,0%. Tỷ lệ sinh qua ngã âm đạo và sinh mổ ở nhóm thai phụ nhiễm GBS lần lượt là 65,2% và 34,8%. Trong 35/302 trường hợp sử dụng kháng sinh dự phòng GBS theo phác đồ, có 23 trường hợp nhiễm GBS (+) chiếm 65,8%. Nghiên cứu chưa ghi nhận nhiễm trùng hậu sản trên nhóm sản phụ nhiễm GBS. Trọng lượng thai ≥ 3000 gr chiếm chủ yếu với tỷ lệ 73,9%. Không có trẻ nhẹ cân (< 2500 gr). Vàng da là tình trạng phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh có thai phụ nhiễm GBS chiếm tỷ lệ 13,0%, tiếp theo là nhiễm trùng sơ sinh và suy hô hấp với tỷ lệ lần lượt là 8,7% và 4,3%. Kết luận: Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và trẻ sơ sinh.
#liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #nhiễm trùng hậu sản #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh
Điều trị nhiễm khuẩn huyết do Candida và nhiễm trùng Candida xâm lấn tại đơn vị chăm sóc đặc biệt: Phân tích hậu kiểm của một thử nghiệm ngẫu nhiên, có kiểm soát so sánh micafungin và amphotericin B dạng liposome Dịch bởi AI
Critical Care - Tập 13 - Trang 1-10 - 2009
Nhiễm khuẩn huyết do Candida và nhiễm trùng Candida xâm lấn là những nhiễm trùng gây nguy hiểm đến tính mạng trong môi trường bệnh viện ở bệnh nhân điều trị tích cực. Một phân tích hậu kiểm của thử nghiệm giai đoạn 3 đánh giá micafungin (100 mg/ngày cho đối tượng > 40 kg; 2 mg/kg/ngày cho đối tượng ≤ 40 kg) so với amphotericin B dạng liposome (3 mg/kg/ngày). Các nhóm con được xác định dựa trên loại khoa vào ngày điều trị đầu tiên: khoa chăm sóc đặc biệt (ICU) hoặc không phải ICU. Phân tích hồi quy đa biến được thực hiện để xác định các yếu tố liên quan đến thành công điều trị vào cuối liệu trình và tỷ lệ tử vong tất cả nguyên nhân vào ngày 8 và 30. Ở các đối tượng không phải ICU, tỷ lệ thành công điều trị cao hơn đáng kể với micafungin so với amphotericin B dạng liposome (85% (n = 108/127) so với 72.1% (n = 98/136); P = 0.0113). Tuy nhiên, đối với các bệnh nhân ICU, tỷ lệ thành công điều trị đối với micafungin so với amphotericin B dạng liposome tương tự nhau (62.5% (n = 75/120) so với 66.4% (n = 73/110); P = 0.5828). Tổng thể, tỷ lệ thành công điều trị thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân ICU so với bệnh nhân không phải ICU (64.3% (n = 148/230) so với 78.3% (n = 206/263); P = 0.0006). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy khả năng thành công điều trị thấp hơn cho: bệnh nhân ICU so với không phải ICU; giảm bạch cầu kéo dài; và điểm số APACHE II cao so với thấp. Tuy nhiên, khi các yếu tố giải thích tiềm năng được đưa vào mô hình phân tích, tình trạng ICU không còn xuất hiện như một biến liên quan đáng kể nhưng mối liên hệ giữa điểm số APACHE II và kết quả điều trị vẫn tồn tại. Các phân tích thêm cho thấy khả năng tử vong vào ngày 8 và ngày 30 thấp hơn với các chủ thể có điểm số APACHE II thấp hơn. Chức năng thận được cải thiện đáng kể ở các đối tượng sử dụng micafungin so với amphotericin B dạng liposome: sự khác biệt (amphotericin B dạng liposome - micafungin trong thay đổi trung bình ước lượng tỷ lệ lọc cầu thận (ml/phút/1.73 m2) là -18.2 (P < 0.0001) và -17.7 (P = 0.0124) ở các đối tượng không phải ICU và ICU, tương ứng. Tổng thể, các bệnh nhân ICU có tỷ lệ thành công điều trị thấp hơn so với các bệnh nhân không phải ICU với cả amphotericin B dạng liposome và micafungin. Phân tích hồi quy đa biến sau khi kiểm soát các yếu tố gây nhiễu tiềm năng cho thấy điểm số APACHE II vẫn là một yếu tố giải thích tiềm năng liên quan đến thành công điều trị, tỷ lệ tử vong vào ngày 8 và tỷ lệ tử vong vào ngày 30. Phân tích hậu kiểm - thử nghiệm clinicaltrials.gov NCT00106288.
#Candidemia #Invasive candidiasis #Intensive care unit #Micafungin #Liposomal amphotericin B #APACHE II score
10. BÁO CÁO CÁC CA LÂM SÀNG ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG KHỚP NHÂN TẠO BẰNG SPACER XI MĂNG KHÁNG SINH CÓ CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD11 - Trang - 2024
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả lâm sàng của việc sử dụng khuôn đúc xi măng kháng sinh động tự chế trong điều trị nhiễm trùng khớp nhân tạo, qua các ca bệnh được điều trị tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM từ năm 2022 đến 2024. Phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 4 bệnh nhân nhiễm trùng khớp nhân tạo, bao gồm 2 ca nhiễm trùng khớp gối và 2 ca spacer khớp háng. Các bệnh nhân được điều trị bằng khối xi măng kháng sinh có chức năng vận động, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp ở thì 2. Phương pháp này được so sánh với các phương pháp sử dụng spacer tĩnh không có chức năng vận động. Kết quả: Sau thời gian theo dõi, tất cả bệnh nhân đã cải thiện về mặt lâm sàng, nhiễm trùng được kiểm soát và không có biến chứng nghiêm trọng nào xảy ra. Khả năng vận động và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt, giúp họ giảm đau nhanh chóng và có thể vận động ngay trong giai đoạn hậu phẫu. Kết luận: Sử dụng khuôn đúc xi măng kháng sinh động là một giải pháp đơn giản, tiết kiệm, và hiệu quả, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp ở thì 2. Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các cơ sở y tế có nguồn lực hạn chế.
#nhiễm trùng khớp nhân tạo #xi măng kháng sinh #spacer động #thay khớp hai giai đoạn #phẫu thuật chỉnh hình
Đánh giá mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm trùng tại Bệnh viện Tim Hà Nội
Đặt vấn đề: Trên thế giới, tỉ lệ cấy máu dương tính ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm trùng (VNTMNT) lên đến 80 – 90%, trong khi đó tại Việt Nam, tỉ lệ dao động 68 – 70%. Tại Bệnh viện Tim Hà Nội chưa có những đánh giá kết quả vi sinh cũng như mối tương quan với kết quả điều trị VNTMNT. Mục tiêu:“Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kết quả vi sinh và kết quả điều trị; mối liên quan với kết cục lâm sàng ở bệnh nhân viêm nội tâm mạc nhiễm trùng”. Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả, cắt ngang, theo dõi dọc. Bệnh nhân có chẩn đoán VNTMNT theo tiêu chuẩn Duke cải biên điều trị từ tháng 5/2022 đến tháng 10/2023. Kết quả: có 63 bệnh nhân, tuổi trung bình là 51.03 ± 15.92 (20-78 tuổi); tỉ lệ nam:nữ = 5:2; khó thở NYHA 2 chiếm 63.5%; siêu âm tim thành ngực xuất hiện sùi ở 93.7%; cấy máu dương tính (36.5%): Streptococcus (56.5%); Staphylococcus (30.4%), Enterococcus faecalis (13.1%); 31.7% điều trị nội khoa, 7.9% phẫu thuật cấp cứu và 60.3% phẫu thuật chương trình; 12.7% tái phát; 80.9% sống ra viện, 9.5% nặng xin về và tử vong tại viện, có 1 bệnh nhân tử vong sau ra viện trong thời gian 6 tháng; CRP có OR(95%CI) là 1.017 (1.006-1.028), p = 0.003 liên quan có ý nghĩa với kết cục lâm sàng; AUC = 0.731 của cấy máu âm tính lúc nhập viện để dự đoán kết cục lâm sàng. Kết luận: Siêu âm tim thành ngực giúp phát hiện tốt sùi, tỉ lệ cấy máu dương tính thấp, kết quả điều trị là khả quan; CRP và cấy máu âm tính nhập viện có ý nghĩa trong dự đoán kết cục lâm sàng ở bệnh nhân VNTMNT.
#viêm nội tâm mạc nhiễm trùng #kết quả vi sinh #cấy máu dương tính #kết quả điều trị #phẫu thuật tim
Tổng số: 13   
  • 1
  • 2